BỆNH BẠCH HẦU: BIẾN CHỨNG ĐÁNG SỢ VÀ CÁCH PHÒNG NGỪA
Tối 25/6/2020, Trung tá Phan Bá Hiếu, phụ trách Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện (BV) Quân y 175 (TP.HCM) cho biết nơi đây đang điều trị cho một nam học viên (20 tuổi) nhiễm bệnh bạch hầu.
Bệnh nhân 20 tuổi nhập viện trong tình trạng sốt, đau họng, khó thở, vùng hàm sưng to. Nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu, các bác sĩ nhanh chóng khởi động quy trình cách ly, khử khuẩn toàn bộ các khu vực bệnh nhân đã đi qua và lấy mẫu xét nghiệm.
Theo đó, vào 9 ngày trước, nam học viên được chuyển đến bệnh viện (BV) trong tình trạng sốt, đau họng, sưng to vùng hàm và hạch cổ. Kết quả xét nghiệm tại BV Quân y 175 và Viện Pasteur TP.HCM đều cho kết quả dương tính khẳng định thanh niên bị bệnh bạch hầu.
Hàng chục nhân viên y tế và các bệnh nhân cùng phòng đã được uống thuốc điều trị dự phòng. 16 người tiếp xúc gần nơi bệnh nhân đang sinh hoạt, học tập đã được cách ly và uống thuốc điều trị dự phòng. TP.HCM là địa phương thứ hai ghi nhận dịch bạch cầu, sau Đắk Nông.
Trước đó, tỉnh Đắk Nông đã ghi nhận 12 người dương tính với bệnh bạch hầu tại 3 ổ dịch. Một cháu bé 9 tuổi đã tử vong, 1.200 người dân bắt buộc cách ly và điều trị dự phòng. Cùng với Bộ Y tế, người dân toàn tỉnh Đắk Nông đang ráo riết ngăn chặn, dập tắt sự lây lan khủng khiếp của bệnh bạch hầu.
Đến ngày 23/6/2020, tỉnh Đắk Nông ghi nhận 12 ca nhiễm, 1 ca tử vong, 1 ca đang có diễn biến bạch hầu trở nặng và thêm một số trường hợp có triệu chứng nghi ngờ nhiễm bạch hầu tại 2 xã Quảng Hòa và Đắk R’măng. Hiện chưa xác định được nguồn lây truyền bệnh bạch hầu tại xã Quảng Hòa và xã Đắk R’măng. Hai ổ dịch này không có mối liên quan với nhau cũng như không có mối liên quan với ổ dịch bạch hầu đã xảy ra tại địa bàn huyện Krông Nô hồi đầu tháng 6/2020.
Ông Viên Chinh Chiến, Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên cho biết, ngay sau khi phát hiện dịch bệnh bạch hầu xuất hiện ở Đắk Nông, Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên chuyển khẩn 10.000 liều vắc xin có thành phần phòng bệnh bạch hầu và cử cán bộ đến địa phương cùng chống dịch. “Qua kiểm tra thực tế, cụm dân cư nơi dịch bệnh bạch hầu bùng phát ở xã Quảng Hòa có tỷ lệ tiêm chủng cực thấp. Như trường hợp bé gái tử vong vừa rồi, chỉ tiêm chủng đúng 1 mũi vắc xin 5 trong 1 vào năm 2011”, ông Chiến cho biết.
Ở Việt Nam, khoảng 5 gần đây, bệnh bạch hầu liên tiếp xuất hiện nhiều tại những tỉnh ở miền Trung, Tây Nguyên như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Đắk Lắk… Từ rải rác xuất hiện một, hai trường hợp ở một số vùng, thì nay bệnh bạch hầu đã liên tục lây nhiễm cho hàng chục bệnh nhân, khiến hàng nghìn người cách ly điều trị, bệnh thậm chí lây lan thành dịch trên phạm vi rộng, đe dọa sức khỏe, tính mạng của cộng đồng.
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ BỆNH BẠCH HẦU – CĂN BỆNH CÓ THỂ GÂY CHẾT NGƯỜI TRONG VÒNG 6-10 NGÀY
Bệnh bạch hầu là bệnh gì?
Bệnh bạch hầu (tiếng Anh: diphtheria) là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục. Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu – tên khoa học là Corynebacterium diphtheria – gây ra.
Bệnh được Hippocrates miêu tả lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Một số tài liệu cũng gợi ý đến sự hoành hành của bệnh bạch hầu ở Syria và Ai Cập cổ đại. Các nhà khoa học đã tìm ra vi khuẩn gây bệnh vào khoảng năm 1883-1884, và kháng độc tố được phát minh vào cuối thế kỷ XIX.
Tình hình dịch bệnh bạch hầu tại Việt Nam?
Ở Việt Nam, thời kỳ chưa thực hiện tiêm vắc xin bạch hầu trong Chương trình tiêm chủng mở rộng thì bệnh bạch hầu thường xảy ra và gây dịch ở hầu hết các tỉnh, đặc biệt là ở các nơi có mật độ dân cư cao. Theo báo cáo từ Bộ Y tế, tỷ lệ mắc bạch hầu liên tục giảm từ năm 1984 đến nay, tương ứng với sự gia tăng tỷ lệ trẻ được tiêm chủng bạch hầu – ho gà – uốn ván.
Do thực hiện tốt việc tiêm vắc xin bạch hầu nên tỷ lệ mắc bạch hầu ở Việt Nam đã giảm dần từ 3,95/100.000 dân năm 1985 xuống 0,14/100.000 dân năm 2000. Tính đến năm 2012 Việt Nam đã khống chế tỷ lệ mắc bạch hầu xuống dưới 0,01/100.000 dân, đa số là trường hợp tản phát hoặc ổ bệnh bạch hầu nhỏ trên quy mô thôn, xã và thường xảy ra ở các khu vực vùng sâu, vùng xa nơi có tỷ lệ tiêm chủng thấp.
Theo báo cáo của chương trình tiêm chủng mở rộng ở trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ lệ tiêm chủng vắc xin phối hợp có chứa thành phần kháng nguyên bạch hầu trong nhiều năm đạt trên 90%. Thống kê năm 2015 cho thấy trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ (tiêm chủng 1 liều vắc xin phòng lao, 3 liều vắc xin DPT-VGB-Hib, 3 liều vắc xin phòng bại liệt, 1 liều vắc xin phòng sởi) đạt tỉ lệ 97.2% trên toàn quốc, không khác biệt rõ rệt giữa các tỉnh thành lớn và vùng sâu, vùng xa.
Tuy nhiên hiện nay đối với vắc xin phòng bệnh bạch hầu cho người lớn lại chỉ có ở tiêm chủng dịch vụ nên khả năng bảo vệ của vắc xin trong cộng đồng người lớn sẽ thấp.
Nguyên nhân gây ra bệnh bạch hầu? Bệnh bạch hầu lây truyền như thế nào?
Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae thuộc họ Corynebacteriaceae. Vi khuẩn bạch hầu có 3 týp là Gravis, Mitis và Intermedius.
Vi khuẩn bạch hầu tiết ra các độc tố gây tổn thương nhiều tổ chức và cơ quan của cơ thể. Ổ chứa vi khuẩn bạch hầu nằm ở người bệnh và cả người lành mang vi khuẩn. Đây vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh.
Ổ chứa vi khuẩn bạch hầu là ở người bệnh và người lành mang vi khuẩn. Đây vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh. Người bệnh thường đào thải vi khuẩn từ thời kỳ khởi phát, thời kỳ lây bệnh có thể kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn. Người lành mang vi khuẩn bạch hầu có thể từ vài ngày đến 3,4 tuần.
Bệnh bạch hầu có thể lây truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành qua đường hô hấp hoặc gián tiếp khi tiếp xúc với đồ chơi, vật dụng có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu.
Vì vi khuẩn bạch hầu lây truyền chủ yếu qua đường hô hấp nên tốc độ lây lan rất nhanh, có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da. Sau khoảng 2 tuần nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân đã có thể lây nhiễm cho người khác.
Bệnh dễ gặp đối tượng nào, có bị nhiễm lại sau khi đã tiêm vắc xin hay không?
Hiện nay, bệnh bạch hầu chưa được loại trừ ở nước ta, do đó người dân vẫn có thể mắc bệnh nếu chưa tiêm vắc xin phòng bệnh và tiếp xúc với mầm bệnh. Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 17/2019/TT-BYT về việc hướng dẫn giám sát đối với 9 loại bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, trong đó có căn bệnh bạch hầu.
Đối tượng dễ mắc bệnh:
- Người ở mọi độ tuổi có tiếp xúc với người bị nhiễm bạch hầu, đi du lịch đến các vùng dịch tễ của bệnh bạch hầu nhưng chưa được tiêm phòng vắc xin;
- Đối với trẻ sơ sinh: thường có miễn dịch thụ động từ mẹ truyền sang con nên không mắc bệnh nhưng miễn dịch bảo vệ này sẽ mất đi khi trẻ 6 tháng – 1 tuổi nên trẻ sẽ có nguy cơ mắc bệnh nếu không tiêm vắc xin;
- Ở trẻ em tuổi dễ mắc bệnh < 15 tuổi nếu chưa có miễn dịch;
- Sau khi mắc bệnh sẽ có miễn dịch suốt đời tuy nhiên với những nhóm người suy giảm miễn dịch tỉ lệ tái nhiễm bệnh khoảng 2 – 5%;
- Miễn dịch bảo vệ sau tiêm vắc xin thường kéo dài khoảng 10 năm, hiệu quả bảo vệ của vắc xin lên đến 97% nhưng giảm dần theo thời gian, do vậy nếu không tiêm nhắc lại vẫn có thể mắc bệnh;
Biểu hiện lâm sàng của bệnh bạch hầu?
Bệnh bạch hầu thường khởi đầu như một đợt cảm lạnh thông thường, viêm họng, viêm amidan, hay viêm thanh quản, và có thể bạn sẽ thấy lạ là bệnh này cũng có thể biểu hiện như một bệnh nhiễm trùng da.
Ca bệnh lâm sàng: Trẻ sẽ bị viêm họng, mũi, thanh quản. Họng đỏ, nuốt đau. Da xanh, mệt, nổi hạch ở dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ. Khi khám thấy có giả mạc. Giả mạc bạch hầu thường trắng ngà hoặc màu xám dính chặt vào xung quanh tổ chức viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu. Ca bệnh xác định chẩn đoán nhờ Phân lập vi khuẩn bạch hầu dương tính từ mẫu bệnh phẩm lâm sàng lấy từ mô bệnh.
Bạch hầu thanh quản là thể bệnh nặng ở trẻ em. Biểu hiện lâm sàng bị nhiễm ngoại độc tố bạch hầu tại chỗ là giả mạc và biểu hiện toàn thân là nhiễm độc thần kinh, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần kinh vận động ngoại biên và thần kinh cảm giác và/hoặc viêm cơ tim.
Người mắc bệnh bạch hầu thường có tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc nặng. Độc tố bạch hầu gây liệt cơ, viêm cơ tim, dẫn đến tử vong trong vòng 6 ngày. Tỷ lệ tử vong khoảng 5% – 10%.
Triệu chứng thường gặp của bệnh bạch hầu?
Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, bệnh bạch hầu sẽ có các biểu hiện khác nhau:
Bệnh bạch hầu mũi trước: Bệnh nhân sổ mũi, chảy mũi ra chất mủ nhầy đôi khi có lẫn máu. Khi khám thầy thuốc có thể thấy màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh này thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Bệnh bạch hầu họng và amidan: Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2-3 ngày, sẽ xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Thường thể bệnh này các độc tố ngấm vào máu nhiều và có thể gây tình trạng nhiễm độc toàn thân. Một số bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò. Những trường hợp nhiễm độc nặng bệnh nhân sẽ phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Các bệnh nhân này nếu không được điều trị tích cực có thể tử vong trong vòng 6-10 ngày.
Bạch hầu thanh quản: Đây là thể bệnh tiến triển nhanh và rất nguy hiểm. Bệnh nhân thường biểu hiện bằng dấu hiệu sốt, khàn tiếng, ho ông ổng. Khi khám, bác sĩ có thể thấy các giả mạc tại ngay thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Nếu không được xử trí kịp thời, các giả mạc này có thể gây tắc đường thở làm bệnh nhân suy hô hấp và có nguy cơ tử vong nhanh chóng.
Bạch hầu các vị trí khác: Thường rất hiếm gặp và nhẹ, vi khuẩn bạch hầu có thể gây loét ở da, niêm mạc như niêm mạc mắt, âm đạo hay ống tai.
Biến chứng nguy hiểm của bệnh bạch hầu?
Tất cả các biến chứng của bệnh bạch hầu kể cả tử vong đều là hậu quả của độc tố. Biến chứng thường gặp nhất trong bệnh bạch hầu là viêm cơ tim và viêm dây thần kinh.
Biến chứng viêm cơ tim có thể xảy ra trong giai đoạn toàn phát của bệnh hoặc cũng có thể xảy ra chậm vài tuần sau khi bệnh đã khỏi. Khi viêm cơ tim xuất hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, tiên lượng thường rất đen tối, tỉ lệ tử vong rất cao.
Biến chứng viêm dây thần kinh thường ảnh hưởng đến dây thần kinh vận động và thường hồi phục hoàn toàn nếu bệnh nhân không tử vong vì biến chứng khác. Liệt màn khẩu cái (màn hầu) thường xuất hiện vào tuần thứ ba của bệnh. Liệt các dây thần kinh vận nhãn, cơ chi và liệt cơ hoành có thể xảy ra vào tuần thứ năm của bệnh. Viêm phổi và suy hô hấp có thể xuất hiện do hậu quả của liệt cơ hoành.
Các biến chứng khác có thể xảy ra như viêm kết mạc mắt hoặc suy hô hấp do tắc nghẽn đường hô hấp có thể xảy ra ở trẻ em, đặc biệt là nhũ nhi.
Tử vong vào khoảng 5 đến 10% có thể tăng cao đến 20% ở trẻ em dưới 5 tuổi và người lớn trên 40 tuổi. Tỉ lệ tử vong của bệnh bạch hầu dường như không thay đổi trong 50 năm qua.
Những ai sẽ bị bệnh bạch hầu?
- Trẻ em và người lớn không được tiêm vacxin bạch hầu;
- Những người sống trong điều kiện đông đúc hoặc mất vệ sinh;
- Bất cứ ai đi du lịch đến một khu vực đang có dịch bệnh bệnh bạch hầu.
Bệnh bạch hầu có chữa được không?
Hiện nay, đã có thuốc để điều trị bệnh bạch hầu, tuy nhiên, trong giai đoạn tiến triển, bệnh bạch hầu có thể gây hại cho tim, thận và hệ thần kinh của người bệnh. Ngay cả khi điều trị, bệnh bạch hầu có thể gây tử vong với tỷ lệ 3% những người mắc bệnh bạch hầu tử vong, tỷ lệ này còn cao hơn ở trẻ em dưới 15 tuổi.
Vaccine phòng bệnh bạch hầu là gì? Thời gian, liều lượng tiêm như thế nào?
Bệnh bạch hầu có thể phòng ngừa được bằng biện pháp tiêm phòng vắc xin. Tại Việt Nam hiện nay không có vắc xin đơn phòng bệnh bạch hầu, chỉ có vắc xin những vắc xin phối hợp trong đó có thành phần kháng nguyên bạch hầu như:
Ở Chương trình Tiêm chủng quốc gia (TCMR):
- Vắc xin 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu – ho gà – uốn ván – Hib – viêm gan B (DPT-VGB-Hib): tiêm khi trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi.
- Vắc xin bạch hầu – ho gà – uốn ván: tiêm khi trẻ 16-18 tháng tuổi.
- Vắc vắc xin bạch hầu – uốn ván cho nhóm đối tượng người lớn có nguy cơ cao, chỉ được sử dụng trong chiến dịch khi có dịch bệnh chứ không tiêm phổ cập.
Về vắc xin dịch vụ:
- Vắc xin 6 trong 1 phòng bệnh bạch hầu – ho gà – uốn ván – bại liệt – Hib – viêm gan B hoặc vắc xin 5 trong 1 phòng bệnh bạch hầu – ho gà – uốn ván – Hib – bại liệt : tiêm khi trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi và khi trẻ 16-18 tháng tuổi.
- Vắc xin 4 trong 1 phòng bệnh bạch hầu – ho gà – uốn ván – bại liệt: khi trẻ 4-6 tuổi.
- Vắc xin phòng bệnh bạch hầu – ho gà – uốn ván: đối với trẻ trên 4 tuổi và người lớn, thường được khuyến cáo tiêm nhắc mũi vắc xin này mỗi 10 năm một lần.
Lịch tiêm chủng các loại vắc xin dịch vụ có thành phần Bạch hầu:
Loại vắc xin |
Vắc xin 6in1 |
Vắc xin 5in1 |
Vắc xin 4in1 |
Vắc xin 3in1 |
Tên vắc xin |
Hexaxim
Infanrix Hexa
|
Pentaxim |
Tetraxim |
Adacel |
Boostrix |
Xuất xứ |
Pháp
Bỉ
|
Pháp |
Pháp |
Pháp |
Bỉ |
Phòng bệnh |
Vắc xin tổng hợp 6 trong 1 phòng 6 bệnh:
Bạch hầu, Ho gà, Uốn ván, Bại liệt, Viêm gan B, Hib.
|
Vắc xin tổng hợp 5 trong 1 phòng 5 bệnh:
Bạch hầu, Ho gà, Uốn ván, Bại liệt, Hib.
|
Vắc xin tổng hợp 4 trong 1 phòng 4 bệnh:
Bạch hầu, Ho gà, Uốn ván, Bại liệt.
|
Vắc xin tổng hợp 3 trong 1 phòng 3 bệnh:
Bạch hầu, uốn ván, ho gà.
|
Vắc xin tổng hợp 3 trong 1 phòng 3 bệnh:
Bạch hầu, uốn ván, ho gà.
|
Đối tượng |
Trẻ từ 2 – 24 tháng tuổi. |
Trẻ từ 2 – 24 tháng tuổi. |
Trẻ từ 2 tháng tuổi đến 13 tuổi. |
Trẻ từ 4 tuổi đến người lớn 64 tuổi. |
Trẻ từ 4 tuổi đến người lớn. |
Lịch tiêm |
Lịch tiêm 4 mũi:
- Mũi 1, 2, 3: Khi trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi hoặc 2, 4, 6 tháng tuổi.
- Mũi 4: Khi trẻ 16-18 tháng tuổi.
|
Lịch tiêm 4 mũi:
- Mũi 1, 2, 3: Khi trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi hoặc 2, 4, 6 tháng tuổi.
- Mũi 4: Khi trẻ 16-18 tháng tuổi.
|
Lịch tiêm 5 mũi:
- Mũi 1, 2, 3: Khi trẻ 2, 3, 4 tháng tuổi hoặc 2, 4, 6 tháng tuổi.
- Mũi 4: Khi trẻ 16-18 tháng tuổi.
- Mũi tiêm nhắc: Trẻ từ 4-6 tuổi.
|
- Trẻ từ 4 tuổi trở lên đến người lớn và người già dưới 64 tuổi: tiêm 1 mũi.
- Tiêm nhắc lại mỗi 5-10 năm 1 lần.
|
- Trẻ từ 4 tuổi trở lên đến người lớn và người già: tiêm 1 mũi.
- Tiêm nhắc lại mỗi 10 năm 1 lần.
|