Các biến chứng thường gặp của sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là bệnh phổ biến, dễ bùng phát vào mùa mưa. Triệu chứng của bệnh dễ nhầm sang sốt virus thông thường, chính vì điều này mà làm cho người bệnh chủ quan, lơ là. Tuy nhiên, nếu bệnh không được điều trị sớm, sẽ có nguy cao đối mặt với những biến chứng sốt xuất huyết cực kỳ nghiêm trọng.
1. Định nghĩa về bệnh sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm lây truyền bởi muỗi vằn. Bệnh thường bùng phát vào mùa mưa tại những vùng có vệ sinh môi trường kém, nhiều ao nước đọng. Đây là môi trường thuận lợi cho muỗi sinh sản và đi hút máu người, gây lây nhiễm virus Dengue.
Khi mắc bệnh sốt xuất huyết, người bệnh chủ quan hay lơ là trong việc điều trị thì sẽ có nguy cao đối mặt với những biến chứng sốt xuất huyết dengue cực kỳ nghiêm trọng.
2. Triệu chứng nhận biết của bệnh sốt xuất huyết
Bệnh sốt xuất huyết được chia ra làm 3 loại: sốt xuất huyết thể nhẹ, sốt xuất huyết chảy máu và sốt xuất huyết dengue (hội chứng sốc dengue). Ở mỗi loại, triệu chứng của bệnh cũng tăng dần theo từng cấp độ.
2.1 Sốt xuất huyết thể nhẹ
Bệnh thường bắt đầu với triệu chứng sốt và sẽ kéo dài trong vòng 4 - 7 ngày tính từ sau khi bị truyền bệnh bởi muỗi. Đây là dạng có biểu hiện các triệu chứng điển hình và không có biến chứng. Ngoài ra, còn có các triệu chứng như:
- Sốt cao, lên đến 40,5 độ C;
- Đau đầu dữ dội ở vùng trán, nhức hai hố mắt sau nhãn cầu;
- Đau khớp và cơ;
- Buồn nôn và ói mửa;
- Phát ban.
Các ban sốt xuất huyết có thể xuất hiện trên cơ thể 3 - 4 ngày sau khi bắt đầu sốt, sau đó thuyên giảm sau 1 - 2 ngày và có thể bị nổi ban lại một lần nữa vào ngày sau đó.
2.2 Sốt xuất huyết có chảy máu
Các dấu hiệu sốt xuất huyết dạng này bao gồm tất cả các triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết thể nhẹ kèm theo tổn thương mạch máu và mạch bạch huyết, chảy máu cam, chảy máu ở nướu hoặc dưới da, gây ra vết bầm tím. Thể bệnh này nếu không kịp thời điều trị sẽ dẫn đến sốt xuất huyết biến chứng, có thể dẫn đến tử vong.
2.3 Sốt xuất huyết dengue (hội chứng sốc dengue)
Đây là loại bệnh sốt xuất huyết nặng nhất, bao gồm tất cả các biểu hiện của bệnh sốt xuất huyết thể nhẹ cộng với các triệu chứng chảy máu, kèm theo huyết tương thoát khỏi mạch máu, chảy máu ồ ạt trong và ngoài cơ thể, sốc (huyết áp thấp).
Loại này thường xảy ra trong lần nhiễm trùng sau, khi người bệnh đã có miễn dịch chủ động (do đã từng mắc bệnh) hoặc thụ động (do mẹ truyền sang) đối với một loại kháng nguyên virus. Đặc biệt, bệnh biểu hiện nặng đột ngột sau 2 đến 5 ngày (giai đoạn hạ sốt). Dạng này của bệnh thường xảy ra ở trẻ em (đôi khi ở người lớn). Dạng bệnh này có thể gây tử vong, đặc biệt là ở trẻ em và thanh thiếu niên.
3. Các giai đoạn tiến triển của bệnh sốt xuất huyết
- Giai đoạn sốt: Các triệu chứng bệnh thường rất khó phân biệt với các loại sốt do virus thông thường. Người bệnh bị sốt cao 39 - 40 độ C, thời gian sốt kéo dài 2 - 7 ngày và khó hạ sốt.
- Giai đoạn nguy hiểm: Từ ngày thứ 3 cho đến ngày thứ 7 kể từ khi bị sốt, giai đoạn này rất nguy hiểm, các triệu chứng nặng của sốt xuất huyết bắt đầu được nhận thấy như:
- Xuất huyết dưới da ở mặt trước hai cẳng chân, mặt trong của cánh tay, bụng, đùi;
- Chảy máu cam; chảy máu chân răng;
- Những biến chứng nặng hơn sẽ xuất hiện: bị chảy máu nội tạng, tràn dịch màng phổi hoặc màng bụng, xuất huyết tiêu hóa hoặc nghiêm trọng hơn là xuất huyết não.
- Giai đoạn hồi phục: Người bệnh hết sốt và thể trạng bắt đầu tốt dần lên, có cảm giác thèm ăn, huyết động bắt đầu ổn định và người bệnh đi tiểu nhiều, các xét nghiệm tiểu cầu tăng dần lên và trở về trạng thái bình thường.
4. Sốt xuất huyết biến chứng nguy hiểm thế nào?
Sốt xuất huyết là bệnh diễn tiến rất khó lường, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vắc xin phòng bệnh. Rất nhiều bệnh nhân đến cơ sở y tế khám trong tình trạng sốt cao, khó thở, mê sảng và thậm chí là vật vã... Những bệnh nhân này nếu không được cấp cứu kịp thời, có thể dẫn đến các tình trạng nguy hiểm sau:
4.1 Suy tim, suy thận
Do tình trạng xuất huyết liên tục trong cơ thể, làm rối loạn hệ thống tuần hoàn nên dẫn đến suy tim. Khi tim không đủ sức bơm máu, dịch huyết tương xuất hiện liên tục sẽ khiến màng tim bị tràn dịch, gây ứ đọng. Điều này khiến tim và hệ thống tuần hoàn bị ảnh hưởng nghiêm trọng, gây suy giảm, xuất huyết cơ tim.
Thận cũng phải làm việc hết công suất để bài tiết huyết tương qua nước tiểu nên có thể dẫn đến tình trạng suy thận cấp.
4.2 Sốc do mất máu
Do virus sốt xuất huyết làm tăng tính thấm mao quản, thoát huyết tương và cô đặc máu đến một ngưỡng nhất định sẽ gây sốc khiến máu bị đẩy ra ngoài. Gây ra các triệu chứng như chảy máu cam, chảy máu chân răng... Nếu không có các biện pháp điều trị kịp thời, bệnh nhân sẽ gặp phải tình trạng xuất huyết nội tạng với biểu hiện chính: nôn ra máu, đi tiểu ra máu, ho ra máu, ra máu âm đạo bất thường, rong kinh...
4.3 Xuất huyết não
Biến chứng đối với bệnh nhân sốt xuất huyết nặng là tiểu cầu giảm. Đây là tình trạng rất nguy hiểm. Bởi nếu tiểu cầu bị giảm mà bệnh nhân không được truyền kịp thời có thể dẫn đến xuất huyết não, dễ tử vong.
4.4 Tràn dịch màng phổi
Huyết tương trong cơ thể bị tràn sẽ xâm nhập vào đường hô hấp, gây viêm đường hô hấp, tràn dịch màng phổi, viêm phổi hoặc phù phổi cấp. Nếu không được cấp cứu, tính mạng của người bệnh có thể bị đe dọa.
4.5 Hôn mê
Khi bị xuất huyết, dịch huyết tương có thể ứ đọng trong màng não qua các thành mạch gây phù não và các hội chứng thần kinh dẫn đến hôn mê. Đây là dạng biến chứng nặng nhất của bệnh sốt xuất huyết. Ngoài ra, có một số trường hợp xuất hiện hôn mê thứ phát sau sốc, sau xuất huyết nội tạng, sau suy tim thận cấp, ... trong trường hợp này là hội chứng não cấp thứ phát, được coi là biến chứng.
4.6 Sinh non, sẩy thai xảy ra ở phụ nữ mang thai
Phụ nữ mang thai bị sốt xuất huyết sẽ có nguy cơ cao đối mặt với nhiều biến chứng nguy hiểm như: gây sảy thai hoặc đẻ non, thai chết lưu. Thai phụ rất có thể bị tiền sản giật, làm tổn thương đến chức năng gan, thận, chảy máu kéo dài khi chuyển dạ.
Lời khuyên của bác sĩ là nếu gặp phải triệu chứng sốt cao đột ngột không hạ trong 1 - 2 ngày, kèm theo dấu hiệu nổi các nốt mẩn đỏ trên da thì nên đưa người bệnh đến ngay các cơ sở y tế để được tiến hành làm kiểm tra và nhận phương pháp điều trị hiệu quả nhất, tránh để bệnh tiến triển gây những biến chứng nguy hiểm về sau.